Xóa án tích
Điều kiện xóa án tích theo quy định
của Bộ luật Hình sự 2015
Theo
quy định của Bộ luật Hình sự 2015, người được xóa án tích được coi như chưa bị
kết án. Và để được xóa án tích, các chủ thể phải đáp ứng một số điều kiện theo
quy định của Bộ luật Hình sự. Theo đó, xóa án tích có thể được thực hiện thông
qua hai phương thức chủ yếu: đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo
quyết định của Tòa án.
1.
Trường hợp đương nhiên được xóa án tích
Căn
cứ vào quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015, đương nhiên được xóa án tích
được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc
gia quy định tại Chương XIII và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và
tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự khi họ đã chấp
hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi
hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật.
Người bị kết án đương nhiên được
xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử
thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định
khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới; hoặc người bị kết án
đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người
này không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 02 năm trong trong trường hợp bị
phạt tù đến 05 năm;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt
tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải
chấp hành dài hơn các thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án
tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
2.
Trường hợp xóa án tích theo quyết định
của Tòa án
Tòa án căn cứ vào tính chất của tội
phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết
án và các điều kiện cụ thể để quyết định việc xóa án tích đối với những người
đã bị kết án.
Việc xóa án tích theo quyết định của Tòa án
được áp dụng đối với người bị kết án về một trong các tội quy định tại
Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sựn khi đáp ứng các điều kiện:
2. Người bị kết án được Tòa án quyết định
việc xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết
thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ
sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội
mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo,
phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05
năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ
trên 05 năm đến 15 năm;
- 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên
15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp
hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công
dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a,
điểm b khoản này thì Tòa án quyết định việc xóa án tích từ khi người đó
chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Để được xóa án tích đối với các tội quy định
tại Chương XIII và Chương XXVI, người bị kết án phải tiến hành nộp đơn xin xóa
án tích lên Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án, có nhận
xét của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ chức
nơi họ làm việc, học tập. Ngoài ra, người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần
đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích; nếu
bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới
được xin xóa án tích.
Nhận xét
Đăng nhận xét